Phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, ít chất thải, các-bon thấp nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, dài hạn

30/10/2024 09:56 Số lượt xem: 12

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là một mô hình kinh tế hướng tới sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, tái chế chất thải, vừa góp phần bảo vệ môi trường, vừa đem lại hiệu quả kinh tế. Đây được coi là một “giải pháp xanh” cho nền kinh tế bền vững, là một trong những nhiệm vụ quan trọng của thế giới.

Phát triển KTTH (KTTH) không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. KTTH có thể giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất có thể, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vòng sản xuất, hay tiêu dùng. Phát triển KTTH là giải pháp trọng tâm để đổi mới mô hình, nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm sản xuất và tiêu dùng bền vững, góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường.

          Chuyển đổi xanh/“kinh tế Xanh” và “tăng trưởng xanh”, theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc UNEP (United Nations Environment Programe) và Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Liên hiệp quốc (UNESCAP), là chiến lược tìm kiếm sự tối đa hoá sản lượng kinh tế, trong khi giảm thiểu gánh nặng sinh thái, đảm bảo sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và tính bền vững môi trường thông qua thay đổi căn bản trong phương thức sản xuất và tiêu dùng xã hội, hướng tới ít phát thải/trung hoà cacbon, tiết kiệm tài nguyên và nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái.

          Về bản chất, một nền kinh tế chuyển đổi xanh là một nền kinh tế ngày càng có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo tính công bằng về mặt xã hội và ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ của hệ sinh thái. Nội hàm chuyển đổi xanh mang tính mở cao và ngày càng định hình đầy đủ hơn, với các điểm nhấn về “Xanh hoá” bao phủ ngày càng rộng khắp các lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng xã hội: “Công nghệ xanh”, “Việc làm xanh”, “Công nghiệp xanh”, “Nông nghiệp Xanh”, “Năng lượng Xanh”, “Giao thông Xanh”, “Đô thị Xanh”, “Cảng Xanh”, “Lối sống xanh”, “Tiêu dùng xanh”, “Mô hình nhà ở xanh”, “Chi tiêu công xanh”; v.v… Đồng thời, những chuỗi giá trị cung - cầu xanh, với các dòng chảy mậu dịch và đầu tư được quy định ngày càng nghiêm ngặt theo yêu cầu phát triển bền vững.

          Sự gia tăng nhanh dân số, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, nhu cầu tiêu thụ các loại nhiên liệu và năng lượng đã làm gia tăng việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Theo ước tính của Liên hợp quốc, đến năm 2050, nếu tiếp tục phát triển với mô hình kinh tế tuyến tính (dựa trên quá trình khai thác, sản xuất, tiêu dùng và thải ra môi trường), nhu cầu sử dụng tài nguyên sẽ gấp 3 lần khả năng cung ứng của Trái đất, lượng chất thải sẽ vượt giới hạn sức chịu tải của môi trường. Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững, được tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thông qua vào năm 2015, đã đưa ra một kế hoạch chung về hòa bình, thịnh vượng cho con người và hành tinh của chúng ta trong hiện tại, cũng như tương lai, kêu gọi hành động khẩn cấp của tất cả các quốc gia trong bảo vệ môi trường, giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu, hướng tới một nền kinh tế các-bon trung tính, không phát thải vào năm 2050.

          Pháp luật về Bảo vệ môi trường cũng dựa trên cách tiếp cận kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh là chủ đạo. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định kinh tế tuần hoàn là “mô hình kinh tế mà trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm thiểu khai thác nguyên vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và loại bỏ các tác động tiêu cực tới môi trường”. Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ đã quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT, hướng dẫn chi tiết về tiêu chí, biện pháp, trách nhiệm và lộ trình, các cơ chế khuyến khích thực hiện kinh tế tuần hoàn.

          Đặc biệt, với cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050 và tăng cường thu hút vốn đầu tư vào năng lượng tái tạo, giao thông thông minh, nông nghiệp thông minh, đô thị - công trình xanh, tài chính xanh… tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực, bắt kịp xu thế phát triển của thế giới, coi đây giải pháp quan trọng để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, đóng góp trực tiếp vào giảm phát thải khí nhà kính để hướng tới nền kinh tế trung hòa carbon trong dài hạn, với mục tiêu không ngừng mở rộng kinh tế xanh đóng góp mỗi năm vào tổng GDP quốc gia từ quy mô 6,7 tỷ USD năm 2020 lên đến 300 tỷ USD vào năm 2050.

          Việc xây dựng và tham gia thị trường carbon hay thị trường tín chỉ carbon theo Điều 17 Nghị định thư Kyoto 1997, nơi các quốc gia được bán hoặc mua quyền phát thải; trao đổi, đấu giá, vay mượn, nộp trả, bù trừ và chuyển giao hạn ngạch, tín chỉ các-bon trong nước, quốc tế còn giúp Việt Nam thu hút được vốn thông qua bán quyền phát thải trên thị trường tín chỉ cac bon quốc tế.

          Các doanh nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng cả từ yêu cầu và lộ trình tăng trưởng xanh của Chính phủ và từ yêu cầu của đối tác trong chuỗi cung ứng quốc tế mà họ tham gia. Bởi vậy, trong mỗi doanh nghiệp, khu công nghiệp, khu kinh tế cần có những chuyên gia, bộ phận có chức năng, nhiệm vụ chăm lo cho tăng trưởng xanh.

          Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường các bon trong nước, với lộ trình vận hành chính thức từ năm 2028. Theo lộ trình, sàn giao dịch tín chỉ các-bon trong nước sẽ vận hành thí điểm từ năm 2025 và vận hành chính thức trong năm 2028. Doanh nghiệp bắt buộc phải xây dựng kế hoạch giảm phát thải từ năm 2026 trở đi. Theo thời gian, lượng hạn ngạch được phân bổ cho các cơ sở sẽ ngày càng giảm dần theo lộ trình giảm phát thải chung quốc gia và giá sẽ tăng lên. Bài toán kinh tế đặt ra cho doanh nghiệp ở đây là làm sao đáp ứng yêu cầu về hạn ngạch với chi phí thấp nhất. Điều 19 Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định, các cơ sở có thể sử dụng tín chỉ các-bon từ các dự án thuộc các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon để bù cho lượng phát thải khí nhà kính vượt quá hạn ngạch phát thải. Tuy nhiên, số lượng tín chỉ không được vượt quá 10% tổng số hạn ngạch được phân bổ. Các doanh nghiệp, các ngành, lĩnh vực cần sớm tìm hiểu và có sự chuẩn bị tham gia thị trường, chú ý xử lý các vấn đề liên quan đến kiểm kê khí nhà kính, hệ thống giám sát phát thải khí nhà kính và MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định) cấp quốc gia/ngành/tiểu ngành/cơ sở sản xuất; tính toán mức tiêu hao năng lượng và phát thải khí nhà kính trong sản xuất, kinh doanh; tính toán mức giảm thải và tiết kiệm năng lượng nếu dự án được triển khai; xây dựng các mô hình dự án đầu tư giảm phát thải và tiết kiệm năng lượng.

          Cơ hội và thách thức phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

          Theo mục 2, Điều 142, Chương XI, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là mô hình kinh tế, trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Mục 3, Điều 138, Chương X của  Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường đã cụ thể hóa 3 nhóm tiêu chí nổi bật của KTTH: a) Giảm khai thác, sử dụng tài nguyên không tái tạo, tài nguyên nước; tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, nguyên liệu thô, vật liệu; tiết kiệm năng lượng; b) Kéo dài thời gian sử dụng vật liệu, thiết bị, sản phẩm, hàng hóa, các linh kiện, cấu kiện; c) Hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường, bao gồm: Giảm chất thải rắn, nước thải, khí thải; giảm sử dụng hóa chất độc hại; tái chế chất thải, thu hồi năng lượng; giảm sản phẩm sử dụng một lần; mua sắm xanh.

          Theo Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/06/2022, phát triển KTTH là tất yếu, phù hợp với xu hướng, yêu cầu tạo đột phá trong phục hồi kinh tế và góp phần hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, với mục tiêu:

          Đến năm 2025, các dự án KTTH bước đầu đi vào thực hiện và phát huy hiệu quả kinh tế, xã hội, công nghệ và môi trường; đóng góp vào phục hồi các tài nguyên tái tạo được, giảm tiêu hao năng lượng, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp, tỷ lệ che phủ rừng, tăng cường tỷ lệ tái chế rác thải, tăng cường tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm nông, lâm, thủy sản và công nghiệp xuất khẩu; tái sử dụng, tái chế, xử lý 85% lượng chất thải nhựa phát sinh; giảm thiểu 50% rác thải nhựa trên biển và đại dương so với giai đoạn trước đây; giảm dần mức sản xuất và sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt.

          Đến năm 2030, các dự án KTTH trở thành một động lực chủ yếu trong giảm tiêu hao năng lượng sơ cấp, có năng lực tự chủ phần lớn hoặc toàn bộ nhu cầu năng lượng dựa trên năng lượng tái tạo, và trong tăng cường tỷ lệ che phủ rừng. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn thông qua các mô hình kinh tế tuần hoàn đạt 50%; 100% rác thải hữu cơ ở đô thị và 70% rác thải hữu cơ ở nông thôn được tái chế; không làm phát sinh việc chôn lấp trực tiếp chất thải rắn sinh hoạt từ các mô hình kinh tế tuần hoàn ở đô thị; tối đa hóa tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định ở các khu đô thị. Giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP ít nhất 15% vào năm 2030 so với năm 2014, phát thải ròng về 0 vào năm 2050;

          Trên hành trình chuyển đổi xanh và phát triển KTTH, Việt Nam có nhiều thuận lợi: Nhận thức, sự đồng thuận tích cực của người dân và doanh nghiệp; nền tảng chính sách, pháp lý khá đầy đủ; Sự phát triển của khoa học - công nghệ và chuyển đổi số giúp nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên; những kinh nghiệm quý đã tích luỹ được về thực hiện mô hình Vườn-Ao-Chuồng (VAC) trong nông nghiệp và thực hiện mô hình sản xuất sạch hơn trong công nghiệp; tham khảo được nhiều mô hình tốt của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước Bắc Âu và các nước có nền kinh tế phát triển....

          Đặc biệt, tham gia KTTH giúp doanh nghiệp (DN) sản xuất, kinh doanh hiệu quả và tăng trưởng cao hơn nhờ nhận thức rõ hơn và chủ động áp dụng các giải pháp về sản xuất sạch hơn; thúc đẩy tái cơ cấu các khâu, cắt giảm chi phí năng lượng, chất thải và tăng cường chuỗi cung ứng trong sản xuất kinh doanh; chống lại việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, tăng tính bền vững và hiệu quả của việc sử dụng đất trong nông nghiệp, đáp ứng các yêu cầu thích ứng với biến đổi khí hậu. từng bước hiện thực hoá nền kinh tế phi phát thải, bảo tồn tài nguyên, môi trường, phát triển bền vững (SDG) và ứng phó với biến đổi khí hậu.

          Hơn nữa, tham gia phát triển KTTH, các doanh nghiệp vừa nhận được nhiều cơ chế hỗ trợ, tránh được các điều chỉnh luật pháp khác về khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường, vừa trở nên linh hoạt hơn, tăng khả năng ứng phó với những thay đổi từ nguồn cung nguyên liệu, giảm nguyên liệu thô, tăng nguyên liệu tái chế, từ đó đa dạng hoá và mở rộng các cơ hội đầu tư, tăng thu hút nhiều lao động việc làm và tạo ra lợi nhuận mới.

          Phát triển KTTH cũng đa dạng hoá và mở rộng quy mô nhu cầu về các dịch vụ mới (như dịch vụ hậu cần, thu gom và hỗ trợ các sản phẩm tái chế, dịch vụ tiếp thị và dịch vụ bán hàng phục vụ kéo dài tuổi thọ của sản phẩm, tái sản xuất các bộ phận và linh kiện, dịch vụ làm mới sản phẩm...) để các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội kinh doanh.

          Thực tế đang và sẽ cho thấy, yêu cầu và sự khuyến khích đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường, sản phẩm xanh từ thị trường, nhất là các thị trường phát triển, sẽ là những động lực cho các nỗ lực chuyển dịch mô hình kinh doanh từ tuyến tính, sang phát triển KTTH, nhất là đối với các DN có xuất khẩu.

          Bên cạnh đó, quá trình phát triển KTTH ở Việt Nam cũng sẽ gặp không ít khó khăn và thách thức, cụ thể:

          Thứ nhất, nhận thức về KTTH nói chung và mô hình KDTH nói riêng vẫn còn hạn chế đối với toàn hệ thống chính trị, DN và người dân. KTTH vẫn là vấn đề mới đối với hầu hết các DN, đối tượng chính trong việc triển khai mô hình này.

          Thứ hai, sự thiếu thống nhất, đồng bộ và cập nhật, hài hoà giữa các quy định pháp luật, nhất là giữa Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Xây dựng,... liên quan đến phát triển KTTH. Các quy định về KTTH tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 là rất mới, trong khi các luật khác đã ban hành trước đây chưa kịp bổ sung để đảm bảo sự đồng bộ. Thậm chí, hiện vẫn chưa có tiêu chí nhận dạng kỹ thuật mô hình KTTH và các quy định, hướng dẫn áp dụng mô hình KTTH cụ thể cho mỗi loại hình DN và ngành. Ngay cả việc đưa nội dung KTTH vào quy hoạch, kế hoạch, lộ trình thực hiện liên quan đến DN vẫn là một trở ngại lớn.

          Thứ ba, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và trở ngại trong triển khai mô hình KTTH gắn với yêu cầu tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh, thiết kế lại quy trình, tăng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng và kéo dài vòng đời sản phẩm, thu hồi chất thải công nghệ, tái sử dụng, tái chế hoặc bảo đảm đầu vào cho hoạt động sản xuất khác; trong khi còn nhiều hạn chế về mặt bằng, công nghệ, kết nối và nhân lực triển khai chuỗi, mạng lưới sản xuất khép kín trong mô hình KTTH.

          Thứ tư, quy hoạch và kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp thiếu sự đồng bộ và tính liên kết cho phát triển KTTH. Công tác thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp cũng chưa xuất phát từ yêu cầu và đặc điểm của mô hình KTTH. Trên thực tế, hầu hết các khu công nghiệp và khu kinh tế trên cả nước hiện mang dáng dấp đại công trường thủ công xưa kia, nơi tập hợp thập cẩm các loại hình doanh nghiệp ít gắn kết về công nghệ và sản phẩm với nhau, dù theo bề dọc hay bề ngang.

          Về tổng thể, thách thức lớn nhất trong việc áp dụng mô hình KTTH là đòi hỏi đầu tư lớn vào kết cấu hạ tầng thu gom, phân loại và tái chế rác thải; đảm bảo hài hoà các chi phí và các lợi ích từ thu hồi và tái chế, tái sử dụng chất thải trong chu kỳ sản xuất; mở rộng nhu cầu về các sản phẩm tuần hoàn và các sản phẩm thay thế; thu hút được sự tham gia từ những chuyên gia có trình độ, kỹ thuật để thực hiện mô hình kinh tế mới này.  Các mô hình sản xuất, kinh doanh theo nền KTTH hiện chưa phổ biến; Đa số các doanh nghiệp vẫn đang hoạt động theo lô-gíc nền kinh tế tuyến tính, tập trung vào việc tạo ra giá trị ngắn hạn, trong khi KTTH là mô hình tạo ra giá trị dài hạn.

          Thực tiễn đã xuất hiện những tín hiệu tích cực về áp dụng kinh tế tuần hoàn của doanh nghiệp, các hiệp hội nghề nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu, chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư  như: trong tái chế giấy đã dùng lò đốt sử dụng năng lượng tái tạo từ vỏ cây, dăm gỗ, giấy bìa gáy; tái chế nhôm dùng nguyên liệu có tỷ lệ phát thải thấp; tái chế tro lò có thành phần phù hợp để làm nguyên liệu cho sản xuất phân bón, vật liệu xây dựng; các trang trại chăn nuôi không phát thải ra môi trường…

          Cần có quy hoạch xây dựng khu xử lý, tái chế, chế biến chất thải hữu cơ tập trung nhằm  tăng cường tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng lượng, nâng cao hiệu quả quản lý chất thải hữu cơ ở nông  thôn cũng như góp phần bảo vệ môi trường sống ở nông thôn; tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.

             Mục tiêu của đưa quy hoạch xử lý chất thải hữu cơ, nông nghiệp và nông thôn vào quy hoạch hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn là chất thải sinh hoạt hữu cơ sau phân loại, phế thải chăn nuôi, trồng trọt, chế biến, giết mổ và nước thải hữu cơ trong sinh hoạt và sản xuất ở nông thôn phải được phân loại, thu gom ngay từ nguồn nhằm tăng cường tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng lượng, giảm gánh nặng chi ngân sách cho thu gom, vận chuyển xử lý chất thải thải sinh hoạt và nâng cao hiệu quả quản lý chất thải hữu cơ khác ở nông thôn cũng như góp phần bảo vệ môi trường sống ở nông thôn.

 Tại khu tái chế chất thải hữu cơ tập trung này sẽ xử lý và tái chế, chế biến chất thải sinh hoạt hữu cơ sau phân loại, phế thải nông nghiệp từ hoạt động chăn nuôi và trồng trọt, chế biến, giết mổ,  bùn thải thoát nước và phân bùn bể tự hoại sau thu gom; để sản xuất sinh khối hữu cơ cho sản xuất nông nghiệp ; tạo ra mô hình chuỗi sản  xuất nông nghiệp hữu cơ tuần hoàn.

          Việc quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp cần bố trí diện tích thích đáng cho xử lý sơ bộ, tái chế chất thải thành hàng hóa, nguyên liệu theo hướng kinh tế tuần hoàn. Tại mỗi khu công nghiệp cần có từ 3-5 Ha, mỗi cụm công nghiệp nên bố trí từ 1 – 3 Ha đất bố trí cho tái chế, chế biến chất thải.

           Để có quy hoạch cho phát triển kết cấu hạ tầng, dành đất thích đáng cho tái chế chất thải và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn phát triển, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, trong đó quy hoạch là tiền đề, sau đó hình thành hành lang pháp lý minh bạch, ổn định, thuận lợi để thu hút doanh nghiệp, các tổ chức ngành nghề, người dân tham gia. Nhà nước tạo môi trường kinh doanh thông qua cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư, phát triển công nghệ sạch, tái sử dụng, tái chế chất thải; chất thải phải trở thành nguồn tài nguyên trong nền kinh tế ở cả khía cạnh sản xuất và tiêu dùng.

         Trong quá trình triển khai quy hoạch, các địa phương lựa chọn và bàn giao mặt bằng sẵn có nằm trong quy hoạch dành cho môi trường và/hoặc đã đầu tư của địa phương để giao cho doanh nghiệp, hợp tác xã dịch vụ môi trường triển khai theo hình thức kêu gọi đầu tư hoặc nếu Nhà nước đã đầu tư thì theo hình thức hợp đồng quản lý và vận hành  (O&M) theo Luật hợp tác công tư (PPP).

          Để có một nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn phát triển bền vững, ngành chức năng cần đẩy mạnh phát triển các mô hình kinh tế tích hợp, tuần hoàn. Trong đó, các tài nguyên được tận dụng lại hoặc tái sử dụng, các dòng phế liệu được biến thành đầu vào để tiếp tục sản xuất.

          Nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và hệ sinh thái xuống cấp. Biến đổi khí hậu và nỗ lực toàn cầu trong việc giảm phát thải khí nhà kính đang tạo ra áp lực và yêu cầu phải thay đổi và phát triển kinh tế theo hướng các-bon thấp. Vì vậy, hướng tới nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là con đường tất yếu giúp chúng ta thích nghi với sự thay đổi của kinh tế thế giới trong giai đoạn mới.

Ts. Nguyễn Ngọc Việt, Ths. Nguyễn Đức Chính Ths. Nguyễn Đức Chính,